Tiểu sử Matthew_C._Perry

Matthew Calbraith Perry sinh ngày 10 tháng 4 năm 1794 tại South Kingston, là con trai của Đại tá Hải quân Christopher R. Perry và là em trai của Phó đề đốc Oliver Hazard Perry, người được mệnh danh là "Người hùng của Trận hồ Erie" trong Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc (1812).

Giai đoạn 1809 - 1820

Một bản sao chính xác của Chuông Gokoku-ji mà Matthew Perry mang về từ Nhật Bản là một món quà do triều đình Ryukyu tặng. Hiện nay đặt ở lối vào của Sảnh Bancroft tại Học viện Hải quân Hoa KỳAnnapolis, MD. Quả chuông nguyên gốc đã được trả lại cho chính phủ Nhật Bản vào năm 1987.

Sự nghiệp của cha anh đã sớm ảnh hưởng đến Matthew Perry. Năm 1809, ông chính thức trở thành một Học viên Hải quân (Midshipman), và bước đầu được phân công làm việc trên tàu USS Revenge. Dưới sự chỉ huy của anh trai, ông đã tham chiến trong Trận hồ Erie với tư cách là một sĩ quan hải quân tập sự trên soái hạm Lawrence, sau đó là soái hạm Niagara.

Sự nghiệp của Perry được tiếp tục trên một số tàu chiến, quan trọng nhất là tàu USS President, vốn đã giành được chiến thắng ngắn ngủi trước một tàu của Anh, HMS Little Belt, ngay trước khi cuộc chiến tranh năm 1812 chính thức tuyên bố. Khi đó, ông được bổ nhiệm làm một trợ lý của Phó Đề đốc John Rodgers. Sau một thời gian ngắn, ông được chuyển sang tàu USS United States, và đã chứng kiến những trận chiến nhỏ trong chiến tranh sau đó, kể từ khi con tàu bị mắc kẹt tại cảng ở New London, Connecticut.

Sau khi Hiệp ước Ghent được ký kết, kết thúc cuộc xung đột, ông phục vụ trên nhiều tàu chiến khác nhau ở Địa Trung Hải. Matthew Perry còn phục vụ dưới trướng Phó Đề đốc William Bainbridge trong Chiến tranh Barbary lần thứ hai. Sau đó ông phục vụ trong vùng biển Châu Phi trên tàu USS Cyane suốt cuộc tuần tra ngoài Liberia trong những năm 1819-1820. Sau cuộc hành trình này, ông được gửi đến để đàn áp cướp biển và việc buôn bán nô lệTây Ấn Độ. Thời gian này, trong khi cập bến tại một cảng tại nước Nga, ông nhận được lời mời làm việc trong Hải quân Đế quốc Nga, nhưng ông đã từ chối.[3]

Giai đoạn 1820 – 1840

Vào năm 1763, người Anh kiểm soát vùng Florida, đụng chạm với quyền lợi của người Tây Ban Nha, vốn cho rằng khu vực Florida Keys là một phần của Cuba và Bắc La Habana. Người Mỹ thì nhắm đến Key West (còn có tên gọi Cayo Hueso trong tiếng Tây Ban Nha), được xem như là "Gibraltar của phương Tây" vì nó bảo vệ bờ phía bắc của eo biển Florida rộng 145 km - tuyến đường nước sâu giữa Đại Tây DươngVịnh Mexico.

Năm 1815, thống đốc Tây Ban Nha ở La Habana chuyển nhượng đảo Key West cho Juan Pablo Salas ở vùng Saint Augustine. Sau khi Florida được nhường lại cho Hoa Kỳ, Salas đã bán lại cho một thương gia người Mỹ là John W. Simonton với giá $2.000 vào năm 1821. Simonton vận động chính phủ Mỹ cho thiết lập một căn cứ hải quân ở Key West, cả hai đều tận dụng lợi thế vị trí chiến lược của nó và mang lại luật lệ và trật tự cho khu vực này.

Bấy giờ, Perry đang là thuyền trưởng tàu USS Shark, một loại thuyền buồm dọc được trang bị 12 khẩu súng. Ngày 25 tháng 3 năm 1822, ông đưa tàu Shark đến Key West để cắm lá cờ Mỹ, tuyên bố chính thức Key West thuộc chủ quyền của Hoa Kỳ. Cái tên "Cayo Hueso" được đổi thành "Đảo Thompson" theo lệnh của Bộ trưởng Hải quân Smith Thompson và bến cảng "Port Rodgers" theo họ của một vị Chủ tịch Hội đồng Ủy viên Hải quân giấu tên.

Từ năm 1826 đến 1827, Perry là một thuyền trưởng chiến hạm cho Phó Đề đốc Rodgers. Sau đó ông trở về Charleston, tiểu bang Nam Carolina làm nhiệm vụ phòng thủ bờ biển vào năm 1828, và năm 1830 được giao quyền chỉ huy chiến hạm USS Concord (một loại tàu chiến nhẹ). Ông đã trải qua bốn năm từ 1833 đến 1837, là sĩ quan thứ hai của Xưởng Hải quân New York (sau này là Xưởng đóng tàu Hải Quân Brooklyn) được thăng chức Đại tá Hải quân vào cuối cuộc thao diễn quân sự này.

Matthew Perry đã tỏ ra rất quan tâm đến việc đào tạo trong hải quân, Ông nhiệt thành hỗ trợ xây dựng một hệ thống học việc để đào tạo thủy thủ mới, và giúp thiết lập các chương trình giảng dạy cho Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Ông là một người ủng hộ và đề xướng công tác hiện đại hóa hải quân. Sau khi được thăng cấp Đại tá Hải quân, ông được cử giám sát việc đóng chiếc tàu frigate hơi nước thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ, USS Fulton. Ông cũng được bổ nhiệm làm thuyền trưởng của USS Fulton ngay sau khi nó hoàn thành. Ngoài ra, ông còn tổ chức binh đoàn các kỹ sư hải quân đầu tiên của nước Mỹ và trường dạy xạ kích đầu tiên của hải quân Mỹ ở Sandy Hook trong khi chỉ huy tàu Fulton vào những năm 1839-1841 trên bờ biển New Jersey. Vì nhiều lẽ đó, ông mệnh danh là "Cha đẻ của Hải quân hơi nước" của Hoa Kỳ.[4]

Thăng phong Đề đốc

Tem in hình Phó Đề đốc Matthew C. Perry phát hành vào năm 1953

Matthew Perry được phong hàm Commodore vào tháng 6 năm 1840, khi Bộ trưởng Hải quân chỉ định ông là sĩ quan chỉ huy của Xưởng đóng tàu Hải quân New York.[5] Cần biết rằng Hải quân Hoa Kỳ không có cấp bậc cao hơn Đại tá Hải quân (Navy Captain) cho đến tận năm 1862, vì vậy cấp bậc Commodore (tương đương Phó đề đốc ngày nay) thực sự có tầm quan trọng đáng kể.[6] Theo thông lệ bấy giờ, trong Lục quân và Hải quân Hoa Kỳ, khi đang thực thi các nhiệm vụ quan trọng, các sĩ quan thường được mang các cấp bậc tạm thời cao hơn cấp bậc thường trực của họ. Tuy nhiên, sau khi kết thúc nhiệm vụ, họ sẽ mang trở lại cấp bậc thường trực. Dù vậy, đối với các sĩ quan chỉ huy đã mang đến cấp bậc Commodore thường được giữ cấp bậc này vĩnh viễn, và Perry không phải là ngoại lệ.

Trong suốt nhiệm kỳ tại Brooklyn, Perry sống ở Khu B ở Admiral's Row, một tòa nhà vẫn còn đến ngày nay, dù đang bị đe dọa phá hủy bởi Công ty Phát triển Xưởng đóng tàu Hải quân Brooklyn. Năm 1843, Perry nắm quyền chỉ huy Hạm đội châu Phi (African Squadron) với nhiệm vụ ngăn chặn việc buôn bán nô lệ theo Hiệp ước Webster-Ashburton cho đến năm 1844.

Chiến tranh Mỹ - Mexico

Năm 1845, nhiệm kỳ chỉ huy Hải đoàn Chủ lực (Home Squadron) của Phó Đề đốc David Connor đã kết thúc. Tuy nhiên, các quan chức chính phủ Hoa Kỳ hiểu được rằng không nên thay đổi vị trí chỉ huy khi Chiến tranh Mỹ-Mexico bùng nổ. Nhiệm kỳ của Connor được tiếp tục và Matthew Perry, người được xem là ứng viên sáng giá để kế nhiệm Connor, được bổ nhiệm làm Phó chỉ huy trưởng thứ nhất (second-in-command) và trực tiếp chỉ huy tàu USS Mississippi. Ông chỉ huy phân đội của mình chiếm được thành phố Mexico của Frontera, uy hiếp Tabasco và tham gia vào cuộc viễn chinh Tampico. Ông phải trở lại Norfolk, Virginia để sửa chữa và tiếp tế cho tàu của mình và ở lại đó cho đến tận sau khi cuộc đổ bộ tại Veracruz diễn ra.

Thời gian Matthew Perry trở lại Hoa Kỳ cũng chính là lúc ông nhận được quyết định bổ nhiệm ông thay thế Connor trong vai trò chỉ huy của Hải đoàn Chủ lực. Ông trở lại và chỉ huy hải đoàn hỗ trợ cuộc bao vây Veracruz từ phía biển. Sau khi Veracruz thất thủ, chỉ huy lực lượng Lục quân Hoa Kỳ, tướng Winfield Scott đã chuyển quân sâu hơn vào vùng nội địa và Perry được giao nhiệm vụ tấn công các thành phố cảng còn lại của Mexico. Perry tập hợp các phân đội của mình lại thành Hạm đội Mosquitochiếm được Tuxpan vào tháng 4 năm 1847. Trong tháng 7 năm 1847, ông đích thân dàn quân tấn công Tabasco, dẫn đầu một lực lượng gồm 1.173 lính đổ bộ lên thành phố.[7]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Matthew_C._Perry http://www.britannica.com/EBchecked/topic/452613/M... http://www.findagrave.com/cgi-bin/fg.cgi?page=gr&G... http://books.google.com/books?id=PcGpkzmjFbgC&pg=P... http://books.google.com/books?id=UdCt8iyB4IkC&dq=T... http://books.google.com/books?id=bFyV2BZMCRwC&pg=P... http://books.google.com/books?id=erBi_TmWanoC&pg=P... http://books.google.com/books?id=erBi_TmWanoC&pg=P... http://books.google.com/books?id=j399Lfj6baYC&pg=P... http://books.google.com/books?id=mvfMKV1b1fwC&pg=P... http://books.google.com/books?id=qcdEAAAAIAAJ&dq=m...